20 tháng 9, 2010

Sáng mãi ngọn đuốc Mo-ri-xơn (Shine Forever Morrison's Torch) - Vĩnh Cát (1965)

Vừa phải-Nhiệt tình (Moderato-Warmly)

Giữa ngọn triều phản chiến dâng cao.
At the peak of the anti-war flood rising high.
Với phong trào giải phóng thét gào.
With the liberation movement screaming at the top of their lungs
Ngọn đuốc Mo-ri-xơn bừng sáng.
Morrison's torch blazes up, shines
Xé tan màn mây mù giả dối.
Slashes the deception's cloudy curtain of fog.
Đánh thức lương tri toàn thế giới.
Awakens the moral bearings of the whole world.
Ngọn lửa thiêng chính nghĩa ngời ngời.
A sacred, righteous flame glows.

Hơi giữ nhịp
Oh, keep in step
Mo-ri-xơn! Mo-ri-xơn!
Morrison! Morrison
Cả nước tôi hát tên anh lòng chan chứa biết bao tình
My whole land sings your name, a heart overflowing with so much love
Ngọn lửa chân lý thiêng liêng thúc giục dồn bước đi lên, từng đường đạn mũi lê diệt xâm lược Mỹ.
Justice's sacred flame urges a gathering of footsteps rising upon every road of bullets and bayonets to wipe out the American invaders.
Sáng lên chân trời mới
Brightens a new horizon
Hướng nhân loại đi tới.
Directing human kind towards it.
Lửa hồng bùng lên trói sáng đời đời đời.
Rosy flames flare upwards dazzling always and forever.


Jean Larteguy, "A Priest Tells How Our Bombers Razed His Church and Killed His People," I. F. Stone's Weekly (November 1, 1965) ["Một linh mục kể việc máy bay oanh tạc của nước ta phá bằng nhờ thơ ông và giết giáo ông."] dịch từ một bài viết trong tạp chí Paris Match, October 2, 1965.

Near Duc Co, 17,000 refugees, for the most part Catholics from the Tonkin, had been settled in some ten villages. Father Currien was their curé.

Gần Duc Co [chắc ở vùng Tây Nguyên?], 17,000 người tị nạn, đa số là người Công giáo di cư từ Bắc Bộ, đã được định cư ở mười xã. Cha Currien là linh mục của họ.

Cha Currien kể: "Today nothing remains of all that region. All is razed... Before the bombardment, the loudspeakers, in the planes above them, told them not to go into the fields and to stay in their huts. They stayed in their huts and were bombarded anyway. Or again the Viet Cong obliged them to come out and machine-gunned them in the fields. Some villages were warned, others not. I have seen my faithful burned up in napalm. I have seen bodies of women and children blown to bits. I have seen all my villages razed. By God, it's not possible."

[Hôm nay không còn gì ở khắp xứ đó. Tất cả bị phá bằng... Trước vụ oanh tạc, các loa từ các máy bay phía trên họ, kể cho họ nghe đừng đi vào các cánh đồng và ở lại các túp lều của họ. Họ đã ở lại trong các túp lều và thế nào cũng bị oanh tạc. Hay một lần lính Việt Cộng bắt họ phải ra và bắn họ với súng liên thanh ở ngoại đồng. Một số xã được tin báo trước, một số khác thì không. Tôi đã nhìn thấy các người ngoan đạo của tôi bị cháy vì napan. Tôi đã nhìn thấy xác của các phụ nữ và trẻ em bị tan tành. Tôi đã nhìn thấy các xã của tôi bị phá bằng. Chúa ơi, không thể nào như thế.]

Bài báo của ngày 1 tháng 11 năm 1965 tôi trích ở trên có tác dụng kích thích Norman Morrison tự thiêu hôm 2 tháng 11 1965. Ngày đó Morrison viết lá thư cho vợ ông:

"Dearest Anne: For weeks, even months I have been praying only that I be shown what I must do. This morning, with no warning, I was shown as clearly as I was shown that Friday night in August, 1955, that you would be my wife... Know that I love thee but must act for the children of the priest's village..." (Paul Hendrickson, The Living and The Dead: Robert McNamara and Five Lives of a Lost War (New York: Alfred Knopf, 1996), p. 215)

[Anne thân yêu: Trong những tuần, kể cả những tháng qua anh đã cầu nguyện rằng anh sẽ được chỉ dẫn về các việc anh phải làm. Sáng hôm nay, không báo được trước, anh được chỉ dẫn một cách rõ rệt như một đêm thứ sáu tháng 8 năm 1955 mà em sẽ thành vợ anh... Hãy biết rằng anh yêu em nhưng anh phải làm cho các đứa con ở xã của linh mục...]

Đoạn thứ nhất của bài ca "Sáng mãi ngọc đuốc Mo-ri-xơn" hợp với thực tế của Norman Morrison - "Xé tan màn mây mù giả dối / Đánh thức lương tri toàn thế giới." Robert McNamara đã viết hồi ký tên là The Fog of War (Mây mù của chiến tranh). Nhiều người (trong đó có Paul Hendrickson) cho rằng cái tội chính của McNamara (và cả cơ chế chính phủ thời bấy giờ) là nói dối về cuộc chiến Việt Nam. Không nói thật về số người lính bị gửi đi Việt Nam, về ngân sách quân lực, về các nghi ngờ của họ về khả năng của quân đội Mỹ để đánh một lực lượng du kích sống gần gũi với dân.

Đoạn thứ 2 của bài ca này không đúng theo lý tưởng đòi hòa bình của Morrison với câu: "đạn mũi lê diệt xâm lược Mỹ." Morrison không tìm đến một "chân trời mới" nhưng chỉ có ý định làm một việc cụ thể là làm cho nước Mỹ không giết những dân thường.

1 nhận xét:

Unknown nói...

Cái câu "Hơi giữ nhịp" chắc là ghi chú về cách hát chứ anh Jason?